Phi thuộc địa hóa và suy tàn (1945 – 1997) Đế_quốc_Anh

Mặc dù Anh và đế quốc là bên chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, song cuộc chiến tranh này đã có tác động sâu sắc đến cả trong nước và hải ngoại. Phần lớn châu Âu- một lục địa chi phối thế giới trong vài thế kỷ- đã bị đổ nát và là nơi đóng quân của quân đội Hoa Kỳ và Liên Xô, hai quốc gia này giờ đây nắm giữ cân bằng quyền lực toàn cầu.[181] Sau chiến tranh, nước Anh về cơ bản là đã phá sản, tình trạng không trả được nợ chỉ được ngăn chặn vào năm 1946 sau khi dàn xếp được một khoản vay 4,33 tỷ USD từ Hoa Kỳ,[182] phần thanh toán cuối cùng của nó được hoàn trả vào năm 2006.[183] Đương thời, các phong trào chống thực dân nổi lên trong các thuộc địa của các quốc gia châu Âu. Tình thế càng thêm phức tạp do cuộc Chiến tranh Lạnh gây ra sự kình địch ngày càng tăng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Về mặt nguyên tắc thì cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều phản đối chủ nghĩa thực dân châu Âu, song trên thực tế đối với Hoa Kỳ thì chủ nghĩa chống cộng chiếm ưu thế hơn so với chủ nghĩa chống đế quốc và do đó Hoa Kỳ ủng hộ sự hiện diện tiếp tục của Đế quốc Anh nhằm cản trở sự khuếch trương của cộng sản.[184] Phát biểu "gió đổi chiều" với ý nghĩa chủ yếu đó là những ngày tháng của Đế quốc Anh sẽ không còn bao lâu nữa và trên tất cả, Anh chấp thuận một chính sách giải thoát hòa bình với các thuộc địa của mình miễn là chúng có các chính phủ ổn định, phi cộng sản để chuyển giao quyền lực. Điều này tương phản với các cường quốc châu Âu khác như Pháp và Bồ Đào Nha,[185] là những quốc gia tiến hành các cuộc chiến tranh tốn kém và cuối cùng không thành công để giữ đế quốc của họ được nguyên vẹn. Từ năm 1945 đến năm 1965, số lượng người nằm dưới sự cai trị của nước Anh và nằm ngoài Vương quốc Anh giảm từ 700 triệu xuống còn năm triệu, ba triệu trong số đó là tại Hồng Kông.[186]

Giải thoát ban đầu

Khoảng 14.5 triệu người mất nhà mất cửa là hậu quả của Sự chia cắt Ấn Độ năm 1947.

Chính phủ Công đảng ủng hộ phi thuộc địa hóa đắc cử trong tổng tuyển cử năm 1945 và nằm dưới quyền Clement Attlee, họ hành động nhanh chóng nhằm giải quyết vấn đề cấp thiết nhất mà đế quốc đối diện: Ấn Độ độc lập.[187] Hai chính đảng chủ yếu của Ấn Độ là Đảng Quốc Đại Ấn ĐộLiên minh người Hồi giáo tiến hành vận động về độc lập trong nhiều thập niên, song bất đồng về cách thức thực hiện. Đảng Quốc Đại tán thành một quốc gia Ấn Độ thế tục thống nhất, trong khi Liên minh người Hồi giáo thì lo ngại ưu thế từ người Ấn Độ giáo chiếm đa số, họ yêu cầu một quốc gia Hồi giáo riêng biệt cho các khu vực mà người Hồi giáo chiếm đa số. Bất ổn dân sự ngày càng gia tăng và một cuộc binh biến của Hải quân Hoàng gia Ấn Độ nổ ra vào năm 1946 khiến Clement Attlee cam kết rằng họ sẽ có được nền độc lập trước ngày 30 tháng 6 năm 1948. Khi mà tình hình trở nên khẩn cấp và nguy cơ về một cuộc nội chiến trở nên hiện hữu, Phó vương mới được bổ nhiệm (và cuối cùng) là Louis Mountbatten vội vàng đẩy nhanh tiến trình lên ngày 15 tháng 8 năm 1947.[188] Biên giới do người Anh vẽ về đại thể phân chia Ấn Độ thành các khu vực của người Ấn Độ giáo và người Hồi giáo, khiến cho hàng chục triệu người trở thành nhóm thiểu số tại các quốc gia mới là Ấn Độ và Pakistan.[189] Hàng triệu người Hồi giáo sau đó đi từ Ấn Độ sang Pakistan và người Ấn Độ giáo đi theo chiều ngược lại và xung đột giữa hai cộng đồng làm thiệt mạng hàng trăm nghìn người. Miến Điện, vốn được cai trị như là một phần của Ấn Độ thuộc Anh, và Sri Lanka giành được độc lập vào năm 1948. Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka trở thành các thành viên của Thịnh vượng chung, trong khi Miến Điện lựa chọn không tham gia.[190]

Tại khu vực lãnh thổ ủy thác Palestine của Anh nơi có đa số người Ả Rập cư trú cạnh một nhóm thiểu số người Do Thái, người Anh cũng phải đối diện với một vấn đề tương tự như tại Ấn Độ.[191] Vấn đề phức tạp ở đây đo là do một lượng lớn người tị nạn Do Thái tìm cách để đến được Palestine sau nạn diệt chủng, trong khi người Ả Rập phản đối thành lập một quốc gia Do Thái. Nản lòng trước khó khăn của vấn đề, các cuộc tấn công từ các tổ chức bán quân sự Do Thái và gia tăng chi phí duy trì hiện diện quân sự, đến năm 1947 Anh tuyên bố rằng họ sẽ triệt thoái vào năm 1948 và để lại vấn đề cho Liên Hiệp Quốc giải quyết.[192] Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc sau đó bỏ phiếu cho một kế hoạch phân chia Palestine thành một quốc gia Do Thái và một quốc gia Ả Rập.

Sau thất bại của Nhật Bản trong Chiến tranh thế khởi thứ hai, các phong trào kháng Nhật tại Malaya chuyển chú ý của họ về phía Anh, còn Anh hành động nhanh chóng để tái kiểm soát thuộc địa này, vốn coi trọng nó như là một nguồn cung cấp cao su và thiếc.[193] Thực tế rằng các chiến sĩ du kích chủ yếu là người cộng sản gốc Hoa, điều này khiến cho nỗ lực của Anh nhằm dập tắt cuộc nổi dậy nhận được sự ủng hộ từ những người Mã Lai theo Hồi giáo vốn chiếm đa số, với điều kiện là một khi cuộc nổi dậy bị dập tắt thì họ sẽ được công nhận nền độc lập.[193] Tình trạng khẩn cấp Malaya bắt đầu vào năm 1948 và kéo dài cho đến năm 1960, song đến năm 1957 thì Anh cảm thấy đủ tin tưởng để cấp độc lập cho Liên bang Malaya trong khối Thịnh vượng chung. Năm 1963, 11 bang của liên bang cùng với Singapore, Sarawak và Bắc Borneo hợp nhất thành Malaysia, tuy nhiên đến năm 1965 thì Singapore vốn có đa số cư dân là người Hoa bị trục xuất khỏi liên minh sau các xung đột giữa cư dân Mã Lai và Hoa.[194] Brunei là một lãnh thổ bảo hộ của Anh từ năm 1888, từ chối gia nhập liên minh[195] và duy trì tình trạng này cho đến khi độc lập vào năm 1984.

Khủng hoảng Suez và hậu quả

Bài chi tiết: Khủng hoảng Suez
Thủ tướng Anh Anthony Eden quyết định xâm chiếm Ai Cập trong Khủng hoảng Suez, điều này kết thúc sự nghiệp chính trị của ông và biểu lộ điểm yếu của Anh với vị thế một thế lực đế quốc.

Năm 1951, Đảng Bảo thủ quay lại nắm quyền tại Anh, dưới sự lãnh đạo của Winston Churchill. Churchill và những người Bảo thủ cho rằng vị thế cường quốc thế giới của Anh dựa trên việc đế quốc tiếp tục tồn tại, cùng với căn cứ tại Kênh đào Suez cho phép Anh duy trì vị thế ưu việt của mình tại Trung Đông bất chấp việc để mất Ấn Độ. Tuy nhiên, Churchill không thể lờ đi việc chính phủ cách mạng mới của Gamal Abdul Nasser tại Ai Cập vừa giành được chính quyền từ năm 1952 và năm sau đó Anh đã phải chấp thuận rằng binh sĩ Anh sẽ triệt thoái khỏi khu vực Kênh đào Suez và rằng Sudan sẽ được trao quyền tự quyết vào năm 1955, cùng với nền độc lập tiếp theo đó.[196] Sudan đã được trao trả độc lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1956.

Trong tháng 7 năm 1956, Nasser đơn phương quốc hữu hóa Kênh đào Suez. Vị Thủ tướng Anh đương thời là Anthony Eden đã đáp trả bằng cách thông đồng với Pháp để sắp đặt một cuộc tấn công của Israel vào Ai Cập, điều này sẽ tạo cho Anh và Pháp một cái cớ để can thiệp quân sự và tái chiếm kênh đào.[197] Eden chọc giận Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower do nhân vật này không được thương nghị và vì thế Eisenhower từ chối ủng hộ cuộc xâm lược.[198] Một lo ngại khác của Eisenhower đó là khả năng về một cuộc chiến tranh quy mô lớn với Liên Xô sau khi quốc gia này đe dọa can thiệp bằng cách đứng về phía Ai Cập. Eisenhower áp dụng đòn bẩy tài chính bằng cách đe dọa bán nguồn dự trữ bằng đồng bảng Anh của Hoa Kỳ và do đó gây ra sự phá giá đối với đồng Bảng của nước Anh.[199] Mặc dù đạo quân xâm lược đã đạt được thành công về quân sự đối với mục tiêu của mình,[200] song can thiệp của Liên Hiệp Quốc và áp lực của Hoa Kỳ đã buộc Anh phải triệt thoái lực lượng của mình một cách nhục nhã và Eden đã phải từ chức.[201][202]

Cuộc Khủng hoảng Suez đã thực sự phơi bày một cách công khai các hạn chế của nước Anh trên thế giới và đã chứng thực cho sự suy tàn của đế quốc Anh trên vũ đài thế giới, không những thế nó còn cho thấy rõ rằng từ nay về sau họ không còn có thể hành động mà không có ít nhất là sự đồng ý, nếu không phải là sự ủng hộ hoàn toàn, của Hoa Kỳ.[203][204][205] Các sự kiện tại Suez đã làm tổn thương đến sự kiêu hãnh quốc gia của Anh, khiến một nghị viên miêu tả nó như "Waterloo của Anh"[206] và những người khác thì cho rằng quốc gia đã trở thành một "vệ tinh của Hoa Kỳ".[207] Margaret Thatcher sau đó đã miêu tả lối suy nghĩ mà bà tin rằng đã xảy đến cho các nhà lãnh đạo chính trị Anh như là "Hội chứng Suez", mà khiến cho họ "đi từ tin rằng nước Anh có thể làm bất cứ điều gì tới một niềm tin gần như thần kinh rằng nước Anh không thể làm được gì cả",[208] từ đó Anh không phục hồi cho đến khi tái chiếm thành công quần đảo Falkland từ Argentina vào năm 1982.[209]

Khủng hoảng Suez khiến quyền lực của Anh tại Trung Đông bị suy yếu, song nó không sụp đổ.[210] Anh lại triển khai quân đội đến khu vực này, tiến hành can thiệp tại Oman (1957), Jordan (1958) và Kuwait (1961), song các trường hợp này có sự tán thành của Hoa Kỳ,[211] do chính sách đối ngoại của tân thủ tướng Harold Macmillan là duy trì liên kết vững chắc với Hoa Kỳ.[206] Anh duy trì sự hiện diện quân sự tại Trung Đông trong nhiều thập niên sau. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1968, một vài tuần sau sự kiện phá giá đồng Bảng, Thủ tướng Anh Harold WilsonBộ trưởng Quốc phòng Denis Healey tuyên bố rằng binh sĩ Anh sẽ triệt thoái khỏi các căn cứ quân sự trọng yếu tại phía đông của Suez, vốn gồm các căn cứ tại Trung Đông và chủ yếu là từ Malaysia và Singapore.[212] Vào thời điểm đó hơn 50.000 quân nhân Anh vẫn còn đóng quân ở vùng Viễn Đông, bao gồm 30.000 ở Singapore.[213] Anh triệt thoái khỏi Aden vào năm 1967, Bahrain vào năm 1971 và Maldives vào năm 1976.[214]

Gió đổi chiều

Đế quốc Anh vào năm 1959

Macmillan đưa ra một phát biểu tại Cape Town, Nam Phi vào tháng 2 năm 1960, ông nói "gió đổi chiều thổi qua lục địa này."[215] Macmillan muốn tránh điều tương tự như chiến tranh thuộc địa mà Pháp chiến đấu tại Algérie và quá trình phi thuộc địa hóa được tiến hành nhanh chóng trong nhiệm kỳ thủ tướng của ông.[216] Trong thập niên 1950, có ba thuộc địa là Sudan, Bờ Biển VàngMalaya giành được độc lập, con số trong thập niên 1960 gấp gần mười lần.[217]

Các thuộc địa còn lại của Anh tại châu Phi, ngoại trừ Nam Rhodesia tự quản, đều được trao trả độc lập cho đến trước năm 1968. Anh triệt thoái khỏi các khu vực miền nam và miền đông của châu Phi không phải là một quá trình hòa bình. Kenya đã giành được độc lập của sau cuộc khởi nghĩa Mau Mau kéo dài tám năm. Tại Rhodesia, Tuyên ngôn độc lập đơn phương vào năm 1965 của cộng đồng thiểu số da trắng đã dẫn đến một cuộc nội chiến kéo dài cho đến khi Hiệp định Lancaster House được kí kết vào năm 1979, với các điều khoản để công nhận nền độc lập vào năm 1980, cùng với đó là một quốc gia mới có tên gọi là Zimbabwe đã được thành lập.[218]

Quá trình phi thuộc địa hóa của Anh tại châu Phi. Đến cuối thập niên 1960, ngoại trừ Rhodesia (sau là Zimbabwe) và lãnh thổ ủy thác của Nam Phi là Tây-Nam Phi (Namibia) thì tất cả đều giành được độc lập.

Tại Địa Trung Hải, một chiến tranh du kích do những người Síp gốc Hy Lạp tiến hành kết thúc bằng một quốc gia Síp độc lập vào năm 1960, tuy nhiên, Anh vẫn duy trì các căn cứ quân sự Akrotiri và Dhekelia. Các đảo MaltaGozo tại Địa Trung Hải được trao trả độc lập một cách hữu nghị từ Anh vào năm 1964, bất chấp ý tưởng nổi lên vào năm 1955 về việc hợp nhất với Anh.[219]

Hầu hết lãnh thổ của Anh tại Caribe đều đã giành được độc lập sau khi JamaicaTrinidad rút khỏi Liên bang Tây Ấn lần lượt vào năm 1961 và 1962. Liên bang Tây Ấn được thành lập vào năm 1958 trong một nỗ lực nhằm hợp nhất các thuộc địa của Anh tại Caribe dưới một chính phủ, song điều này sụp đổ sau khi liên bang mất hai thành viên lớn nhất.[220] Barbados giành được độc lập vào năm 1966 và các đảo Đông Caribe còn lại giành độc lập trong các thập niên 1970 và 1980,[220] song AnguillaQuần đảo Turks và Caicos lựa chọn trở lại quyền kiểm soát của Anh sau khi họ đã sẵn sàng bắt đầu con đường độc lập.[221] Quần đảo Virgin thuộc Anh,[222] Quần đảo CaymanMontserrat lựa chọn duy trì các quan hệ với Anh,[223] trong khi Guyana giành độc lập vào năm 1966. Thuộc địa cuối cùng của Anh trên đại lục châu Mỹ là Honduras thuộc Anh trở thành một thuộc địa tự quản vào năm 1964 và đổi tên thành Belize vào năm 1973, nó giành được độc lập hoàn toàn vào năm 1981. Một tranh chấp với Guatemala về chủ quyền đối với Belize đã không được giải quyết.[224]

Các lãnh thổ của Anh tại Thái Bình Dương giành độc lập trong thập niên 1970, bắt đầu với Fiji vào năm 1970 và kết thúc với Vanuatu vào năm 1980. Nền độc lập của Vanuatu đã bị trì hoãn do xung đột chính trị giữa các cộng đồng Anh ngữ và Pháp ngữ, bởi vì quần đảo này chịu sự quản trị chung của Anh và Pháp.[225] Fiji, Tuvalu, quần đảo SolomonPapua New Guinea đã lựa chọn trở thành Vương quốc Khối thịnh vượng chung.

Đế quốc kết thúc

Trung tâm hội nghị triển lãm Hồng Kông là nơi tổ chức lễ kỷ niệm chuyển giao chủ quyền đối với Hồng Kông từ Anh cho Trung Quốc vào năm 1997, đánh dấu tượng trưng cho "sự kết thúc của Đế quốc".

Năm 1980, Rhodesia, thuộc địa châu Phi cuối cùng của nước Anh, trở thành quốc gia độc lập Zimbabwe. Tân Hebrides cũng giành được độc lập (trở thành Vanuatu) vào năm 1980, và Belize nối tiếp giành độc lập vào năm 1981. Đạo luật Quốc tịch Anh 1981 được thông qua, trong đó tái xác định các thuộc địa vương thất còn lại là "các lãnh thổ phụ thuộc Anh" (đổi tên thành Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh vào năm 2002)[226] có nghĩa là ngoài các đảo và tiền đồn nằm rải rác (và năm 1955 thu được đá không người tại Rockall tại Đại Tây Dương),[227] quá trình phi thuộc địa hóa vốn bắt đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai phần lớn đã hoàn thành. Năm 1982, quyết tâm của Anh trong bảo vệ các lãnh thổ hải ngoại còn lại đã bị thử thách khi Argentina xâm chiếm quần đảo Falkland, dựa trên tuyên bố có từ thời Đế quốc Tây Ban Nha.[228] Phản ứng quân sự thành công chung cuộc của Anh để tái chiếm quần đảo được nhiều người nhận định là góp phần làm đảo nghịch xu thế đi xuống của vị thế nước Anh trong vai trò là một cường quốc thế giới.[229] Trong cùng năm, chính phủ Canada đoạn tuyệt liên kết tư pháp cuối cùng của họ với Anh khi chuyển quyền với hiến pháp Canada khỏi Anh. Quốc hội Anh thông qua Đạo luật Canada 1982, kết thúc sự cần thiết Anh tham gia vào thay đổi hiến pháp Canada.[21] Tương tự như vậy, Đạo luật Hiến pháp 1986 được thông qua nhằm cắt đứt liên kết giữa hiến pháp Anh với hiến pháp của New Zealand, Đạo luật Úc 1986 cắt đứt liên kết giữa hiến pháp Anh và hiến pháp các bang của Úc.[230]

Trong tháng 9 năm 1982, Thủ tướng Margaret Thatcher đến Bắc Kinh để đàm phán với chính phủ Trung Quốc về Hồng Kông-lãnh thổ hải ngoại lớn và đông dân nhất cuối cùng của Anh.[231] Theo các điều khoản của Điều ước Nam Kinh 1842, đảo Hồng Kông được nhượng vĩnh viễn cho Anh, song đại đa số thuộc địa cấu thành từ Tân Giới- lãnh thổ mà Anh thu được theo một hợp đồng thuê 99 năm vào năm 1898, sẽ hết hạn vào năm 1997.[232][233] Thatcher ban đầu muốn giữ Hồng Kông và đề xuất về sự cai quản của nước Anh với chủ quyền của Trung Quốc, song Trung Quốc bác bỏ điều này.[234] Một thỏa thuận đạt được vào năm 1984 – theo các điều khoản của Tuyên bố chung Trung-Anh, Hồng Kông sẽ trở thành một khu hành chính đặc biệt của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, duy trì phương thức sinh hoạt trong ít nhất 50 năm.[235] Lễ bàn giao vào năm 1997 đối với nhiều người, bao gồm cả Charles, Thân vương xứ Wales, đánh dấu[19] "sự kết thúc của Đế quốc".[21][22]